Chủ Nhật, 2 tháng 11, 2014

ĐỨC CHÚA TRỜI VẪN CÒN LÀM PHÉP LẠ

Khắp mọi nơi người ta đang trông đợi phấn hưng từ nơi Chúa. Có thể lý do của mỗi một người thì khác nhau, nhưng ai nấy đang ngóng trông giờ phút đó. Khác với 20 năm về trước, tức là vào cuối những năm 88 của thế kỷ trước, chúng ta ngày nay không ai thắc mắc là Chúa có phấn hưng Hội Thánh hay không, vì ai cũng đã được biết về những gì Chúa đã làm trong lần phấn hưng đó rồi. Ngày nay, đều mà người ta quan tâm là khi nào thì Chúa sẽ đổ Thánh Linh một lần nữa trên Hội Thánh của Ngài tại Việt Nam.
Trong tinh thần vọng trông cơn phấn hưng hầu đến, chúng ta sẽ cùng nhau tra xem nơi lời của Chúa trong Công vụ 8: 4-25, để học biết những gì sẽ xảy ra một khi Chúa thăm viếng đất này. Phân đoạn Kinh Thánh này sẽ tỏ bày cho chúng ta một lần nữa về Đức Chúa Trời của chúng ta – Đức Chúa Trời hay làm phép lạ. Rằng bất cứ nơi nào có sự thăm viếng của Ngài, nơi đó có phép lạ, sự tự do dành cho con người cùng sự tôn cao dành cho chính mình Ngài.
I.     Nơi đâu Lời Chúa thật sự được rao giảng nơi đó có dấu kỳ phép lạ xảy ra
Hãy để ý hình ảnh: “những người di tản đi đến đâu cũng truyền giảng Phúc Âm”. Một trong những người di tản đó có tên là Philip. Bản Dịch Cũ kể rằng, “Philip cũng vậy …”, tức là ông cũng không khác chi những người lánh nạn khác: … xuống thành Sa-ma-ri mà giảng về Đấng Christ!
Phép lạ bắt đầu ở chỗ đó. Phép lạ bắt đầu từ chỗ những người nam, người nữ của Đức Chúa Trời khởi sự rao giảng về Đấng Christ, khởi sự nói về Đức Giê-xu, Cứu Chúa của mình. Dấu kỳ phép lạ của Đức Chúa Trời sẽ xảy ra khi dân sự của Chúa, khi tôi tớ của Chúa bắt đầu rao giảng về Tin Lành, tức là rao giảng về sự chết, sự chôn và sự sống lại của Chúa Giê-xu.
Trong II Các Vua chương 5 có kể lại câu chuyện vị tướng người Sy-ri tên là Na-a-man được chữa lành bịnh phung, một căn bịnh được xem là bất trị vào thời bấy giờ. Phép lạ này xảy ra khi có một bé gái người Y-sơ-ra-ên, bị bắt làm con ở giới thiệu về Chúa cách gián tiếp.
Trong Công vụ chương 3, người què ở cổng Đền Thờ Giê-ru-sa-lem được chữa lành hoàn toàn khi Phi-e-rơ công xưng danh quyền năng của Chúa Giê-xu.
Tại sao hễ nơi nào Lời Chúa được rao giảng, hễ nơi nào có người giảng về Chúa Giê-xu thì nơi đó dấu kỳ, phép lạ lại xảy ra? – Vì chính Chúa đã bảo đảm như thế. Ngài hứa rằng, sẽ dùng các dấu kỳ, phép lạ cặp theo để xác chứng lời giảng của con dân Ngài (Mac 16: 20). Đó chính là lý do mà Phao-lô khẳng định trong I Tesalonica 1: 5 rằng, Phúc Âm chúng tôi đã truyền cho anh chị em không phải chỉ bằng lời nói nhưng bằng quyền năng, nhờ Đức Thánh Linh và đầy lòng tin quyết.
Điều cần lưu ý là “những người di tản” này và ngay cả Philip cũng không phải được Hội Thánh Giê-ru-sa-lem sai đến Sa-ma-ri để giảng Tin Lành. Không ai sai họ đi đến đó cả, có thể nhiều người trong số họ không muốn đến vùng đất đó – vùng đất ô uế, đáng khinh bỉ đối với người Do Thái như họ – họ đã bị rượt đến. Nói cách khác, họ bị đến chớ không phải được đến! Ấy mà môi miệng của những con người bị rượt đuổi này luôn nói về điều gì ? – Không phải là tin xấu, tin dữ về bắt bớ, bách hại, … mà là Tin Lành; không phải về hoạn nạn, khó khăn, về nan đề của cá nhân mà là về Đấng Christ, về Chúa.
Không phải là họ cuồng tín hay trốn chạy thực tại mà là vì Chúa ban cho họ nhận thức được tình trạng khẩn cấp trong việc rao giảng Tin Lành cho những người hư mất. Họ nhìn thấy tình trạng thuộc linh, vấn nạn thuộc linh của những người Sa-ma-ri là quan trọng hơn, là khẩn cấp hơn, nguy kịch hơn cả những nan đề mà họ đang đối diện nữa. Đó là lý do mà “những người di tản đi đến đâu cũng truyền giảng Phúc Âm, đi đến đâu cũng rao giảng về Đấng Christ. Và hễ nơi đâu Phúc Âm được rao giảng, bất kỳ nơi nào người ta nói về Chúa Giê-xu, thì nơi đó dấu kỳ phép lạ của Chúa còn xảy ra.
Anh chị em ơi, trong Công vụ 1: 8 dạy rằng, chúng ta được Chúa chọn để làm nhân chứng cho Chúa Giê-xu, hay nói như Bản dịch củ là “làm chứng về Ta”, tức là về Chúa Giê-xu, chớ không phải về chúng ta. Thế thì trong những ngày vừa qua, môi miệng của tôi và anh chị em đang nói về ai? – về Chúa Giê-xu hay về chính chúng ta; về những công việc mà Ngài đã, đang và sẽ làm hay ta đang “giảng” cho người khác về những nan đề của mình, những sự vô tín, lo lắng, bất an của mình? Ngày mỗi một ngày, chúng ta đang làm chứng về Tin Lành hay đang làm chứng cho người khác về những tin xấu trong Hội Thánh, những sai phạm, lỗi lầm của những anh chị em đồng đạo của mình?
Phép lạ của Chúa chỉ xảy ra khi và chỉ khi Tin Lành được rao giảng; dấu kỳ chỉ xảy ra khi Lời Chúa được rao giảng; Chúa chỉ làm phép lạ khi con dân của Ngài vâng lời Ngài làm chứng về Chúa Giê-xu mà thôi.
Một điểm nữa mà chúng ta cần lưu ý trong phân đoạn Kinh Thánh này, đó là những người “truyền giảng Phúc Âm”, những người giảng “về Đấng Christ”. Họ là ai? – Ngoại trừ, Philip thì còn lại đều là những người vô danh. Họ chỉ là những thành viên bình thường trong HT. Thành viên bình thường trong HT vẫn có thể giảng Tin Lành, thành viên bình thường vẫn có thể giảng về Chúa Giê-xu. Vấn đề là chúng ta có muốn làm điều đó, tức là có muốn vâng lời Chúa hay không, chớ không phải có thể làm điều đó hay không.
Philip là ai? Trong Công vụ 6: 1-7 cho chúng ta biết rằng, ông là một trong bảy chấp sự của Hội Thánh Giê-ru-sa-lem. Ông được chọn để làm gì? – Câu 2, cho thấy ông và các bạn được chọn để giúp các sứ đồ, tức những người lãnh đạo Hội Thánh, “cấp phát thức ăn” mỗi ngày cho những người quả phụ. Số là, lúc bấy giờ “tất cả các tín hữu đều hợp nhất với nhau, lấy mọi vật sở hữu làm của chung, bán tài sản của cải mà phân phát cho mọi tín hữu tùy theo nhu cầu của mỗi người (2: 44-45), nên mới phát sinh chuyện đó. Nói theo ngôn ngữ ngày hôm nay, thì Philip chưa hẳn đã là một chấp sự, mà chỉ là một người có tâm tình phục vụ, một người sẵn sàng tham gia công việc chung, khi Hội Thánh có nhu cầu mà thôi. Ấy vậy mà người này đã giảng về Đấng Christ, và rất nhiều dấu kỳ, phép lạ đã xảy ra. Kinh Thánh thuật lại rằng, “nhiều tà linh hét lên mà xuất khỏi những người bị ám. Nhiều người bại liệt và què quặt được chữa lành, nên thành phố tràn ngập niềm vui”.
Tôi khao khát được Chúa tin dùng như thế. Anh chị em có mong ước được Chúa sử dụng mình như Philip, như những người di tản xuống Sa-ma-ri năm xưa không? – Hãy rao giảng Tin Lành, hãy tiếp tục làm chứng về Chúa Giê-xu. Khi chúng ta tiếp tục rao giảng Lời Chúa khắp mọi nơi, bất luận gặp thời hay không gặp thời, thì có một điều chắc chắn sẽ xảy ra: Chúa sẽ đồng công với mỗi chúng ta, lấy các dấu kỳ, phép lạ cặp theo để xác chứng lời Ngài, là Lời được rao giảng qua môi miệng mỗi chúng ta.
II.   Nơi đâu quyền phép của Chúa xảy ra nơi đó người ta được tự do (c. 9-13)
Trong sách Phúc Âm Giăng 8: 32 Chúa Giê-xu dạy rằng, khi một người biết lẽ thật thì lẽ thật sẽ buông tha người, hay nói như Bản Dịch Mới là “sẽ giải phóng” người ấy. Nơi đâu Lời Đức Chúa Trời được rao giảng, nơi đó dấu kỳ, phép lạ của Chúa sẽ xảy ra. Và nơi đâu có quyền phép của Chúa xảy ra, nơi đó người ta được tự do.
Hãy để ý đến hình ảnh trong câu 7-8: “nhiều tà linh hét lên mà xuất khỏi những người bị ám, nhiều người bại liệt và què quặt được chữa lành, nên thành phố tràn ngập niềm vui”. Đó là sự tự do, sự tự do đến từ Chúa: tự do khỏi sự áp chế của tà ma, tự do khỏi tật nguyền, đau yếu, tự do khỏi buồn khổ, lo lắng và tự do khỏi thù hận, cay đắng.
Không chỉ dừng lại ở đó, sự tự do bởi quyền phép của Chúa còn đến với những người từng là công cụ của ma quỷ. Trong trường hợp cụ thể này là thầy phù thủy có tên Si-môn. Ông là một người nổi tiếng về phép thuật ở thành phố này, trước khi Tin Lành quyền năng được rao giảng tại đó. Ai nấy đều trọng vọng và ca tụng nhưng thật ra thì ai nấy đều sợ ông ta.
Mục sư Nguyễn Như Hạnh làm chứng rằng, có một tay thầy mo người Bru rất cao tay ấn, tuy còn khá trẻ chưa đến 30 tuổi nhưng cả làng ai cũng sợ. Từ cán bộ chính quyền, công an cho đến dân thường đều sợ hãi vì y ta có thể yếm chú khiến bịnh tật hoặc chết bất cứ người nào. Một hôm y nghe về Chúa Giê-xu qua một Mục sư rồi bằng lòng tiếp nhận Chúa, thì bị cả làng đuổi ra rừng mà sống để cho “con ma rừng nó bắt đi”. Nhưng rồi, không có “con ma nào bắt được” người, vì vị thần mới của anh ta là lớn hơn hết mọi thần linh, nên anh lần lượt “bắt” hết người này đến người khác trong làng của mình, cũng như trong những làng lân cận – không phải để chết, mà là để sống – về cho Chúa Giê-xu.
Khi quyền phép Chúa bày tỏ ra để xác chứng Lời của Ngài, thì ngay cả những thầy mo, thầy pháp, thầy phù thủy, … cũng được Chúa chạm đến. Tại sao? – Vì họ cũng là đối tượng cần được thương xót; họ cũng là những người cần được hưởng ơn cứu rỗi; họ cũng là những con người mà Chúa đang tìm để cứu, như Ngài đã tuyên bố trong Luca 4: 18-19 rằng, “Thần Chúa ngự trên Ta, vì Ngài đã xức dầu cho Ta, để truyền giảng Tin Mừng cho người nghèo khổ. Ngài đã sai Ta công bố cho kẻ bị tù được phóng thích, cho kẻ mù lòa được sáng mắt, cho người bị áp bức được giải thoát, và công bố kỷ nguyên thi ân của Chúa”.
Kinh Thánh thuật lại trong câu 13 rằng, Chính Si-môn cũng tin và sau khi chịu phép báp-tem, cứ theo sát bên Phi-líp. Khi Si-môn thấy các dấu lạ và việc quyền năng vĩ đại Phi-líp làm thì ngạc nhiên vô cùng”. Một người đã từng trổ tài ma thuật, khiến cho từ lớn đến bé đều trọng vọng và thậm chí ca tụng rằng: “Ông này có quyền năng của Thiên Chúa, quyền năng vĩ đại”, lại lấy làm “ngạc nhiên vô cùng” trước những dấu lạ và việc quyền năng mà người của Đức Chúa Trời đã làm. Điều đó chứng tỏ rằng, quyền năng của Chúa là vượt trỗi hơn quyền năng của ma quỷ. Dấu kỳ, phép lạ từ nơi Chúa là mạnh mẽ, là kỳ diệu đến nỗi ngay cả những thầy pháp, thầy cúng đại tài cũng phải kinh sợ.
Không loại trừ khả năng rằng chính chỗ “ngạc nhiên vô cùng” khi thấy các dấu lạ và việc quyền năng vĩ đại mà người của Đức Chúa Trời đã thực hiện đang khi rao giảng Tin Lành, đã bắt phục thầy pháp Si-môn. Chính quyền phép của Đức Chúa Trời đã giải phóng ông khỏi sự cầm buộc của ma quỷ. Chính quyền năng của Đức Chúa Trời đã ban cho ông sự tự do. Ông không chỉ tiếp nhận Chúa, mà còn chịu báp-têm và còn theo “thầy” học đạo luôn, nói theo ngôn ngữ ngày hôm nay là chịu huấn luyện để trở nên môn đồ.
Nếu anh chị em đã từng tham gia cầu nguyện giải cứu những người bị tà ma hãm áp thì anh chị em sẽ phần nào hiểu được một người thầy pháp, thầy cúng, … tin Chúa là khó dường nào. Nhưng thật lời như lời Chúa đã phán: “không chi khó quá cho Chúa” hay “không việc gì mà Chúa không làm được”.
Biết bao nhiêu người nam, người nữ trên đất nước này đang bị ma quỷ sử dụng, biết bao thầy bùa, thầy pháp cần được cứu. Ai sẽ là người đem Tin Mừng đến cho họ. Cần nhớ rằng, Philip không đi tìm thầy pháp để giảng Tin Lành; ông không đi tìm thầy phù thủy để giảng về Chúa Giê-xu. Việc mà ông cũng như những người lánh nạn khác đã làm là rao giảng Lời Chúa, và Đức Chúa Trời đã đưa thuật sĩ Si-môn đến. Việc của chúng ta là làm chứng về Chúa Giê-xu, việc của Đức Chúa Trời là kéo người ta đến và ban cho họ sự tự do.
Điều gì sẽ xảy ra đối với những người mà trước đây đã từng nhờ Si-môn cúng vái, giờ thấy ông tin nhận Chúa? – Ảnh hưởng đó thật là lớn lao. Không chỉ một mình ông được tự do, mà sự tự do từ nơi Chúa sẽ lan ra một cách mạnh mẽ là dường nào!
III. Quyền phép của Chúa được trang bị cho chúng ta không để tôn cao chúng ta mà là nhằm tôn cao Chúa (c. 14-25)
Khi quyền năng Chúa bày tỏ ra thì khắp nơi đều biết đến. Điều này là tự nhiên, vì nơi đâu có sự hiện diện của Chúa nơi đó có quyền năng; nơi đâu có quyền năng của Chúa nơi đó người ta được tự do. Mà nơi đâu có quyền năng của Chúa, người ta từ khắp các nơi sẽ tìm đến, bất kể đó là Giê-ru-sa-lem hay là Sa-ma-ri. Không chỉ những người có nhu cầu mới tìm đến mà ngay cả những sứ đồ từ Giê-ru-sa-lem – những người có tiếng tăm cũng tìm đến!
Người ta sẽ không quan tâm nhóm tín hữu tại Sa-ma-ri thuộc “hệ” nào. Việc nhóm tín hữu tại đó chỉ do một “chú chấp sự” hướng dẫn không ảnh hưởng gì đến sự thăm viếng của họ. Người ta đến vì họ cần Chúa, người ta đến vì họ muốn nhìn thấy công việc của Chúa, chớ không phải người ta đến vì con người hay để xem công việc của con người.
Đó chính là hiện tượng đã từng xảy ra trên toàn cõi Palextin thời Giăng Bap-tit thi hành chức vụ. Người ta ùn ùn vào đồng vắng (sa mạc) để làm gì? – Không phải để xem một cây lau sậy phất phơ trước gió hay là một người trong gấm vóc lụa là (Mathiơ 11: 7-10). Họ vào nơi hoang địa thay vì nơi đô hội là vì nơi ấy có “người được Đức Chúa Trời sai đến”.
Như vậy, quyền năng Chúa bày tỏ ra ở đâu thì nơi đó trở nên “hút khách”. Hãy để ý những chức vụ nổi tiếng trên thế giới như Benny Hinn, Reihard Bonke, Calos Claudious, … Từ khắp thế giới người ta tìm mọi cách để tham dự được những buổi nhóm của các vị Mục sư này. Tiếng lạ ư, báp-têm Thánh Linh ư? – Không thành vấn đề. Mấy “râu ria” đó, mấy rào cản cỏn con đó không là gì so với khát khao được gặp Chúa, được nhìn thấy quyền năng của Chúa. Những ngày tới, khi Chúa thăm viếng một Hội Thánh thuộc một hệ phái nào bất kỳ, kể cả nhà thờ CMA, thì nơi đó sẽ là nơi mà mọi người sẽ đổ về; các buổi nhóm của Hội Thánh đó sẽ chật ních những con người từ khắp các hệ phái nhóm nhánh từ Báp-tít đến Ngũ Tuần, từ Giám Lý đến Trưởng Lão, từ Lu-thơ-ran đến CMA.
Quyền phép Chúa xuất hiện ở đâu thì sự nổi tiếng xảy ra ở đó. Thế nhưng, sự nổi tiếng đó không phải là dành cho con người hay cho Hội Thánh, kể cả những con người hay Hội Thánh đang được Chúa sử dụng để bày tỏ quyền năng. Si-môn không biết được điều đó. Si-môn chẳng những không biết rằng, ân tứ của Đức Chúa Trời không thể mua bằng tiền mà ông còn không biết rằng, Đức Chúa Trời không ban quyền phép cho người ta để đề cao chính mình.
Quyền phép của Đức Chúa Trời được ban cho chúng ta cách nhưng không, tức là miễn phí. Miễn phí chớ không phải là đồ bố thí, hàng dạt hay là đồ giảm giá. Miễn phí vì con người chúng ta, không ai có thể dùng bất kỳ một điều gì ngay cả mạng sống của mình để trao đổi với Chúa được. Miễn phí nhưng là vô giá, tức là không thể định giá, vô cùng quý giá chớ không phải là không (vô) giá trị. Quyền phép của Chúa được tỏ bày qua chúng ta là để tôn cao Chúa, để người ta nhận biết Chúa và chạy đến với Ngài, chớ không phải nhằm đề cao chúng ta và thu hút người ta đến với chúng ta.
Các sứ đồ quở trách Si-môn vì “lòng ông chẳng ngay thẳng trước mặt Đức Chúa Trời”, khi cầu xin quyền phép Chúa. Ước ao được sở hữu quyền năng của Đức Chúa Trời không phải là sai, nhưng ước ao với một tấm lòng không ngay thẳng, tức là với một động cơ sai trật, thì Kinh Thánh nói rằng, người ấy đang làm “nô lệ cho tội lỗi” và người như thế thì “chẳng được dự phần hoặc hưởng điều gì trong chức vụ mà người ao ước đâu.
Anh chị em ơi, hãy cầu xin Chúa giữ lòng của mình ngay thẳng trước mặt Ngài luôn luôn. Đừng để mật đắng và xiềng tội ác cầm giữ lòng chúng ta đến nỗi ngay cả ước ao được nhận lấy điều mà Chúa hứa ban cho mỗi tín đồ cũng trở nên xa vời đối với mỗi một chúng ta.  
Trong những ngày qua, có thể tôi và mỗi anh chị em không ít lần cầu xin hoặc đang tiếp tục cầu xin Chúa chữa lành, làm phép lạ cho một cá nhân cụ thể nào đó đang bị bại liệt, đang bị ung thư chẳng hạn, nếu hôm nay Chúa hỏi chúng ta cách trực tiếp rằng, “tại sao con muốn ta làm phép lạ chữa lành cho người đó?”, thì bao nhiêu người trong chúng ta sẽ trả lời rằng: vì con muốn Chúa được tôn cao?
Đức Chúa Trời tại Sa-ma-ri năm nào cũng chính là Đức Chúa Trời của chúng ta ngày hôm nay. Ngài không hề thay đổi. Ngài vẫn là Đức Chúa Trời hay làm phép lạ  như Thi thiên 77: 14 đã nói. Bất cứ nơi đâu Phúc Âm được rao giảng, nơi đó người ta sẽ nhìn thấy dấu kỳ phép lạ từ Đức Chúa Trời. Bất cứ nơi đâu dấu kỳ phép lạ từ Đức Chúa Trời được bày tỏ, nơi đó người ta được tự do: tự do khỏi bệnh tật, tự do khỏi sự cầm buộc của ma quỷ, tự do khỏi thù hận, tự do khỏi đói nghèo và tự do khỏi những suy nghĩ ích kỷ, hẹp hòi. Và bất cứ khi nào dấu kỳ phép lạ từ Đức Chúa Trời, tức quyền phép của Ngài hiển lộ thì không phải con người hay tổ chức mà là chính Đức Chúa Trời được tôn vinh.
Bao nhiêu người trong anh chị em thật sự khao khát và mong ước những gì Đức Chúa Trời đã làm tại Sa-ma-ri năm xưa qua chức vụ của Philip và những tín hữu vô danh được tái hiện một cách đầy đủ và thậm chí vượt trỗi hơn trong mọi làng mạc, mọi thành phố của đất nước Việt nam? – Hãy trung tín làm phần của mình: rao giảng về Đấng Christ thì chúng ta sẽ được tận mắt chứng kiến những gì Chúa sẽ thực hiện phần của Ngài: phục hưng xứ sở của chúng ta.
Bài giảng của Ms Barnabas tại HT Antioch vào Chúa nhật, 2/8/2009


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét